Thứ Sáu, 19/4/2024
Kết quả lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi): Gần 1,4 triệu lượt góp ý kiến vào nội dung dự thảo

UBTƯ MTTQ Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam,
Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức Hội nghị lấy ý kiến các tổ chức, nhà khoa học về
dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) vào ngày 21/2/2023


Phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết của nhân dân

Theo Kế hoạch số 676/KH-MTTW-BTT về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) diễn ra từ ngày 3/1/2023 đến hết ngày 15/3/2023. Nhìn chung, việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân vào Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đảm bảo đúng mục đích, yêu cầu, bằng nhiều hình thức, có phân loại đối tượng, phát huy tối đa sức mạnh của từng đối tượng lấy ý kiến; bảo đảm tính chuyên sâu, hiệu quả và chất lượng.

Theo đó, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức 12 hội nghị, hội thảo với 230 lượt ý kiến góp ý; Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố đã tổ chức 51.153 hội nghị, hội thảo với gần 1,4 triệu lượt góp ý kiến tâm huyết, sâu sắc, góp ý vào hầu hết các ý kiến của toàn bộ dự thảo. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến MTTQ các cấp trong tỉnh Quảng Ninh tổ chức được 2.561 hội nghị góp ý kiến; MTTQ Tây Ninh tổ chức 10.182 hội nghị góp ý kiến; Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố Đà Nẵng đã đã tổ chức 106 cuộc...

Cùng với đó, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã nhận được tổng số trên 8,3 triệu ý kiến góp ý cụ thể vào từng quy định trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) của các tổ chức, cá nhân.

Tại các Hội nghị, hội thảo, nhân dân đều bày tỏ sự vui mừng, tin tưởng vào chủ trương lấy ý kiến toàn dân đối với Dự thảo Luật Đất đai. Đây là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, trong đó người dân giữ vai trò trung tâm. Rất nhiều ý kiến tâm huyết đã được gửi tới Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, trong số đó có những bản đóng góp lên đến hàng chục trang góp ý vào hầu hết các nội dung trong dự thảo, có những bản góp ý được viết tay tỉ mỉ, trang trọng thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến dự thảo này. Một số tổ chức, cá nhân gửi nhiều bản góp ý trong suốt thời gian lấy ý kiến nhân dân, đóp góp vào nhiều chương mục trong dự thảo.

Hầu hết các ý kiến đều đánh giá Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đưa ra lấy ý kiến Nhân dân đã có nhiều nội dung mới và có định hướng trong Văn kiện Đại hội Đảng khóa XIII, các Nghị quyết, kết luận của Đảng, của Quốc hội. Đặc biệt đã thể chế hóa 3 mục tiêu tổng quát, 6 mục tiêu cụ thể, 6 nhóm giải pháp và 8 nhóm chính sách lớn tại Nghị quyết số 18-NQ/TW và giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội.

Nhân dân đánh giá cao việc Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo và xây dựng Luật Đất đai để thể chế hóa sớm nhất Nghị quyết số 18-NQ/TW. Việc sửa đổi Luật Đất đai là một vấn đề rất cần thiết, cấp bách trong giai đoạn hiện nay vì đây không chỉ là một đạo luật quan trọng, phức tạp, giữ vai trò căn bản trong hệ thống pháp luật về đất đai mà nó có mối quan hệ và ảnh hưởng sâu sắc đến việc thực thi các chính sách quy định trong rất nhiều luật khác...

Việc tổ chức lấy kiến nhân dân rộng rãi lần này đã phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân để hoàn thiện dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khả thi của hệ thống pháp luật, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới; góp phần tạo sự thống nhất và đồng thuận trong nhân dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đất đai. Đồng thời nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai, phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, cũng còn có ý kiến cho rằng việc sửa đổi Luật lần này cần thêm thời gian, việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân tuy cần thiết nhưng còn gấp gáp, không tránh khỏi tình trạng hình thức còn diễn ra ở nhiều địa phương, đơn vị. Để Luật Đất đai (sửa đổi) thực sự chất lượng, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu phát triển mới theo tinh thần Nghị quyết 18 thì đề nghị Quốc hội cân nhắc, xem xét có nên thông qua Luật Đất đai (sửa đổi) vào kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV, có thể lùi thời hạn thông qua để có thời gian nghiên cứu, tiếp thu và hoàn thiện dự thảo.

Quy định rõ quyền, trách nhiệm của từng chủ thể trong quan hệ pháp luật về đất đai

Nội dung báo cáo tổng hợp nêu rõ, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam ghi nhận việc tiếp thu, chỉnh lý nhiều lần của Ban Soạn thảo, Dự thảo lần này cơ bản đã thể chế hóa những chính sách lớn tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tập hợp, tổng hợp ý kiến của nhân dân, Ban Thường trực nhận thấy hiện vẫn còn một số nội dung chưa thật sự phù hợp hoặc thể chế chưa đầy đủ Nghị quyết số 18. Thậm chí nhiều điều luật trong dự thảo không mang tính quy phạm mà diễn đạt lại nội dung của Nghị quyết, chưa quy định rõ quyền, trách nhiệm của từng chủ thể trong quan hệ pháp luật về đất đai.

Đối với việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đô thị, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho rằng, xuất phát từ thực tế, nếu thoả thuận thì có một số vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Nhưng nếu để Nhà nước thu hồi đất cũng sẽ phát sinh một số vướng mắc mà hiện nay người sử dụng đất chưa đồng thuận cao. Bởi vì khi thu hồi bồi thường là giá đất nông nghiệp. Sau đó đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng bao nhiêu thì không có ai kiểm soát và khi thành đất ở giá chênh lệch nhiều lần nên cũng tạo ra vướng mắc, chưa công bằng.

Mặc dù trong dự thảo đưa ra lấy ý kiến nhân dân lần này, Điều 78 vẫn quy định là Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng bao gồm rất nhiều điểm, trong đó Ban Soạn thảo đã tiếp thu và không còn quy định thu hồi đất để thực hiện dự án nhà ở thương mại, tuy nhiên điểm h vẫn quy định về dự án đô thị sử dụng các loại đất không phải là đất ở. Như vậy trong dự thảo vẫn quy định dự án đô thị do Nhà nước thu hồi đất.

Bởi vậy, ban soạn thảo cân nhắc thật kỹ lưỡng điều khoản này để phù hợp với Nghị quyết 18; đồng thời Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng: Dự án đô thị phải thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong trường hợp, dự án đã thỏa thuận được trên 80% số hộ dân có đất ảnh hưởng bởi dự án nhưng số còn lại không thể thỏa thuận được thì trên cơ sở đề xuất của doanh nghiệp, Nhà nước tiến hành thu hồi đất đối với phần diện tích không thể thỏa thuận.

Bảo đảm người có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ

Dự thảo Luật đã cụ thể hóa quan điểm này tại điểm a khoản 4 Điều 85 về Trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng và Điều 89 về Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.

Các ý kiến cho rằng, điểm 2 khoản 4 Điều 85 là chưa đủ để thể chế hết quan điểm tại Nghị quyết, cần cụ thể hóa hơn nữa trong luật đến việc triển khai thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư (như chi trả tiền bồi thường, bố trí tái định cư xong), sau đó mới ban hành quyết định thu hồi đất. Điều 3 dự thảo Luật không giải thích khái niệm thế nào là “có điều kiện sống bằng khoặc tốt hơn nơi ở cũ” và dự thảo cũng không đưa ra tiêu chí hay phương thức đối sánh trước khi bồi thường và sau khi bồi thường để định lượng việc Nhà nước bồi thường cho người bị thu hồi đất có điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ hay không.

Khoản 2 Điều 89 gần như diễn đạt lại nội dung của Nghị quyết. Do đó, Ban Soạn thảo cân nhắc bổ sung, cụ thể hóa nguyên tắc đề cập tại khoản 2 Điều 89 của dự thảo, theo đó: Một là: giải thích rõ hiểu thế nào là người bị thu hồi đất sau khi được bồi thường có điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ: Hai là, bổ sung quy định về một số tiêu chí đánh giá cụ thể, mang tính định lượng việc Nhà nước bồi thường cho người có đất bị thu hồi.

Dự thảo nên cân nhắc các khía cạnh về cơ sở hạ tầng, điều kiện ổn định cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của người dân (điện, đường, trường, trạm, hệ thống cấp, thoát nước, thông tin liên lạc, xử lý môi trường, điều kiện tổ chức sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm…)

Tính độc lập của hội đồng thẩm định giá đất và quy định đánh thuế cao hơn với người sở hữu nhiều diện tích đất

Một trong những nhiệm vụ đưa ra tại mục 2.4 của Nghị quyết 18-NQ/TW là “Có cơ chế hữu hiệu để nâng cao chất lượng công tác định giá đất, bảo đảm tính độc lập của hội đồng thẩm định giá đất, năng lực của tổ chức tư vấn xác định giá đất, năng lực và đạo đức của các định giá viên.” Ở dự thảo lần này, hội đồng thẩm định giá đất, bảng giá đất quy định tại Điều 156 chưa thể coi là độc lập với các cơ quan liên quan trong việc xác định và quyết định giá đất/giá đất cụ thể khi Ủy ban nhân dân vừa là cơ quan có thẩm quyền lập, quyết định và cũng là chủ trì Hội đồng thẩm định bảng giá đất. Thành phần của Hội đồng thẩm định giá đất chỉ có 01 tổ chức độc lập là Tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất, chuyên gia về giá đất và các thành viên khác nhưng lại do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quyết định. Còn lại thành viên hầu hết đều là các sở ngành, là đại diện của các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân, vai trò của MTTQ Việt Nam trong hội đồng này cũng khá mờ nhạt, nên không thể bảo đảm tính độc lập của hội đồng.

Một trong những quan điểm chỉ đạo tạo mục 2.5 Nghị quyết 18-NQ/TW đó là: Quy định mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, đất bỏ hoang.

So với Luật Đất đai năm 2013 thì Khoản 1 Điều 147 Dự thảo quy định các khoản thu tài chính từ đất đai bổ sung thêm khoản thu mới là tiền sử dụng đất trong trường hợp sử dụng đất đa mục đích. Đối chiếu những quan điểm, mục tiêu của Nghị quyết 18-NQ/TW thì Dự thảo vẫn chưa giải quyết thỏa đáng vấn đề là thuế sử dụng đất chưa được quy định cụ thể, không thể hiện điểm mới, chưa đáp ứng yêu cầu mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện tích, nhiều nhà ở… Quan điểm này được đông đảo nhân dân quan tâm nhưng hiện nay vẫn chưa được cụ thể hóa bởi quy định pháp luật trong dự thảo Luật.

Theo đó, đề nghị đưa vào dự thảo Luật các quy định cụ thể về đối tượng sẽ bị áp dụng mức thuế cao, đối tượng được áp thuế bình thường, các trường hợp miễn giảm, xây dựng một hệ thống để thông báo cho người dân biết số tiền thuế họ đóng vào được dùng vào những việc gì, tạo điều kiện cho người dân tham gia vào công tác giám sát việc sử dụng thuế của nhà nước. Cùng với đó là những khoản thu nhằm điều tiết hiệu quả chênh lệch địa tô, nhất là phần giá trị tăng thêm không do người sử dụng đất đầu tư.

Thể chế hóa tinh thần Nghị quyết đối với các chính chăm lo cho đồng bào dân tộc thiểu số

Qua nghiên cứu dự thảo Luật cho thấy các quy định đối với đồng bào dân tộc thiểu số có: 04 điều khoản quy định riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số (Điều 17, Điều 52; khoản 2 Điều 174; điểm a, khoản 3 Điều 175); 04 điều khoản quy định cho một số đối tượng ưu tiên, trong đó có dân tộc thiểu số (khoản 1 Điều 40; điểm d, khoản 2 Điều 125; khoản 1 Điều 137; khoản 1 Điều 152). Trong đó: Các chính sách đã được quy định cụ thể là: (1) Giao đất ở; (2) Giao đất sản xuất; (3) Được ưu tiên hơn so với đối tượng khác khi thực hiện giao đất, cho thuê đất; (4) Được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm, kể từ khi được giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

Với những nội dung quy định như trên cho thấy dự thảo Luật chưa thể chế hóa đầy đủ tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW; các chính sách đối với dân tộc thiểu số trong các điều luật chưa thể hiện được nguyên tắc nêu tại tên Điều 17 là “…có đất để sản xuất, kinh doanh, đảm bảo sinh kế”, do đó cần tiếp tục xem xét, sửa đổi, bổ sung. Cùng với đó, chính sách “tạo điều kiện” trong Điều 17 dự thảo cần sửa thành “ưu tiên” theo đúng quan điểm của Nghị quyết số 18-NQ/TW.

Đề nghị bổ sung trong dự thảo quy định đất ở, đất sản xuất hình thành từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp cho người dân tộc thiểu số khi thực hiện chính sách dân tộc thì không được mua bán, chuyển nhượng. Trong trường hợp thật sự có nhu cầu sử dụng thì phải được UBND cấp huyện hoặc cơ quan dân tộc cấp tỉnh đồng ý...

(mattran.org.vn)

Gửi cho bạn bè

Các tin khác

Xem nhiều nhất