Thứ Sáu, 17/5/2024

Yêu nuôi Nhân dân trong cội gốc âm nhạc của Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi sinh tại Nhị Khê, tỉnh Hà Tây năm Canh Thân (1380), cháu ngoại của Trần Nguyên Đán, tôn thất nhà Trần, con trai của Nguyễn Phi Khanh. Lúc 20 tuổi đã đỗ bằng Thái Học Sinh dưới thời nhà Hồ (1400). Năm 27 tuổi đã theo cha bị quân Minh bắt giải về Kim Lăng (1407) và đi tới Nam quan, định theo phụng sự cha trong cảnh tù đày. Nhưng đã chọn hiếu, nghe theo lời cha khuyên phải trở về tìm cách báo thù cha, rửa hận nước. Ông bị giam lỏng tại Nam Đông quan (Hà Nội). Năm 38 tuổi (1418) cùng với Trần Nguyên Hãn trốn vào Lam Sơn, góp sức với người anh hùng áo vải Lê Lợi khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược ra khỏi bờ cõi , đem lại độc lập tự do cho dân tộc Việt. Ông đã nổi tiếng nhờ bài Bình Ngô Đại Cáo, là tác giả của Tập Gia Huấn ca, Ức Trai thi tập, Ức Trai Địa Dư chí, Quốc Âm Thi tập, một người văn võ toàn tài. Sau khi thắng trận Chi Lăng, theo phò Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đến ngày Vua băng hà, lui về ẩn dật tại Côn Sơn tỉnh Hải Dương.

Năm 1434 vua Lê Thái Tông triệu ra làm quan. Đã nhiều lần dâng sớ cho nhà Vua trong những công việc giữ nước, dựng nước. Vua Thái Tông ái mộ Nguyễn Thị Lộ, phu nhân của Nguyễn Trãi gọi vào cung cho làm “Lễ Nghi Học Sĩ” dạy lễ nghi, văn chương cho các cung nữ. Đến khi Vua đi tuần miền Đông, nghỉ đêm tại nhà của Nguyễn Trãi, vườn Lệ Chi, xã Đại Lai trên sông Thiên Đức. Sau một đêm Vua băng hà. Triều đình các hoạn quan đều nói rằng Nguyễn Thị Lộ đã giết Vua và buộc tội cả Nguyễn Trãi. Ngày 16-8 âm lịch, Nhâm Tuất (1442), Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ bị tru di tam tộc. Nỗi hàm oan ấy đã được đời sau làm sáng tỏ ra lòng trung quân ái quốc của Nguyễn Trãi và phu nhân Nguyễn Thị Lộ và ác tâm của bọn hoạn quan, đã cho một tỳ nữ lén bỏ thuốc độc vào bình trà của nhà vua để vu oan Nguyễn Thị Lộ và trả thù Nguyễn Trãi.

Nhưng có lẽ ít người biết rằng Nguyễn Trãi tinh thông âm nhạc và đã tham gia vào việc nghiên cứu và xây dựng nền âm nhạc cung đình của nhà Lê.

Sau khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi vào mùa Xuân tháng giêng năm 1437, Vua đã sai quan Hành khiển Nguyễn Trãi cùng với Lộ Bộ Ty Giám là Lương Đăng đốc làm loan giá, nhạc khí, dạy tập nhạc và múa. (“Đại Việt sử ký toàn thư” Tập III Quyển XI Tr 112-146). Hành khiển Nguyễn Trãi dâng biểu về khánh đá và tâu rằng: “Kể ra, thời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm Lễ Nhạc. Song không có gốc thì không đứng được, không có văn thì không hành được. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu làm nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn sợ rằng trong khoảng thanh luật, khó được hài hòa. Xin bệ hạ yêu nuôi Nhân dân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cội gốc của nhạc vậy”. Vua khen nhận, sai thợ đá ở huyện Giáp Sơn lấy đá ở núi Kinh Chủ để làm.

Đoạn vừa kể trên chứng tỏ rằng Nguyễn Trãi đã có học lý thuyết về âm nhạc, nhưng lại có một tư tưởng rất mới là trong âm nhạc có nội dung gọi là gốc của âm nhạc và hình thức gọi là văn của âm nhạc. Theo Nguyễn Trãi, cái văn không quan trọng bằng cái gốc và cái gốc xuất phát từ Nhân dân. Nếu quốc thái dân an, Nhân dân được một đời sống đầy đủ, tình thương lo của nhà vua thì chỉ có tiếng nhạc vui tươi. Nếu Nhân dân bị thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần, cất tiếng ta thán, tiếng nhạc sẽ bi ai và như thế đã mất gốc của âm nhạc. Trong lịch sử chính trị và văn hóa nước ta chưa người nào đưa ra những ý kiến sâu sắc về âm nhạc như vậy.

Trong lúc làm việc với Lương Đăng có nhiều điểm bất đồng giữa 2 người. Lương Đăng có ý chép y lại những quy định nhạc cung đình của nhà Minh, đặt ra 2 dàn nhạc Đường Thượng Chi Nhạc tấu trên cung điện, và Đường Hạ Chi Nhạc tấu dưới sân đình. Dàn Đường Thượng Chi Nhạc gồm 8 loại nhạc khí thuộc về 8 âm (Bát âm) giống như dàn nhạc Triều Hạ Yến Hưởng Chi Nhạc của nhà Minh.

Bốn tháng sau, Hành Khiển Nguyễn Trãi tâu rằng: “Mới rồi bọn thần cùng với Lương Đăng sửa định Nhã Nhạc, nhưng sở kiến của thần không giống sở kiến của Lương Đăng, thần xin trả lại mệnh ấy”. Trước kia, Thái Tổ sai Nguyễn Trãi định quy chế mũ áo, chưa kịp thi hành, Lương Đăng dâng thư đại khái nói : “Kể lễ thì có lễ Đại triều, lễ Thường triều. Tế Trời, cáo Miếu, ngày Thánh tiết, ngày Nguyên đán thì làm lễ Đại triều Hoàng đế mặc áo cổn, đội mũ Miện, lên ngồi ngai báu, trăm quan mang áo mũ triều. Còn như những ngày mồng một, ngày rằm hằng tháng, thì Hoàng đế mặc áo bào vàng, đội mũ Xung thiên, ngồi ngai báu, trăm quan mặc áo công, đội mũ phác đầu. Thường triều thì Hoàng đế mặc áo bào vàng, đội mũ Xung thiên, ngồi sập vàng, trăm quan mặc áo thường cổ tròn, đội mũ sa đen”. Về lễ bộ thì có đại giá, xe loan lớn, xe ngựa kéo, có kiệu cửu long (9 con rồng) kiệu thất long (7 con rồng) có xe người kéo, đi bước một, xe chạy nhanh…

Thư ấy dâng lên. Vua sai Lương Đăng định ra các quy chế. Lương Đăng nhân thể mới dâng lên quy chế về áo mũ và nhạc khí. Đại khái quy chế do Lương Đăng và Nguyễn Trãi định, nhiều chỗ không hợp nhau, lời bàn về nhạc khí, lớn nhỏ, nặng nhẹ, nhiều điều trái nhau, mà cách tấu cũng không giống nhau vì thế mà Nguyễn Trãi từ việc. Vua nghe lời đề nghị của Lương Đăng rồi làm theo.

Và trong sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng không có ghi lại lời đề nghị của Nguyễn Trãi. Vua sai chép các ghi chú ấy treo ở ngoài cửa Thừa Thiên. Vua lễ Yết Thái miếu, các quan mặc triều phục làm lễ bắt đầu từ đấy.

Nguyễn Trãi mặc dầu không đồng ý với cách sắp đặt của Lương Đăng, không chỉ trích biên chế của dàn nhạc và các loại nhạc. Nhưng khi hành lễ thì những chi tiết trong cách tấu nhạc có nhiều điểm rất sai, Nguyễn Trãi với sự đồng tình của một số quan trong triều đình như Tham Tri Bạ Tịch, Nguyễn Tuyền, các quan Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Tham Nghị Nguyễn Liễu, đã dâng sớ tâu rằng : “Đặt lễ làm nhạc, tất phải đợi được có người mới làm, được như Chu Công thì mới không có ai chê trách. Nay sai kẻ hoạn quan Lương Đăng một mình định lễ nhạc cả nước chẳng nhục lắm ư? Vả lại lễ nhạc của y là dối Vua lừa dưới, không bằng cứ vào đâu, như trước kia, đánh trống là báo giờ ra chầu buổi sớm, nay Nhà Vua ra chầu rồi mới đánh trống. Theo quy chế xưa, lúc Vua ra, bên tả đánh chuông Hoàng chung, rồi năm chuông bên hữu ứng theo, lúc Vua vào thì đánh chuông Nhuy tân (Di tân, một trong 12 luật lữ) rồi năm chuông cùng ứng theo. Nay Vua ra chầu đánh 108 tiếng chuông, đó là số nhà sư lần tràng hạt. Theo quy chế thì Vua ngồi ở cửa Phụng Thiên phải có sập vàng, ở điện Phụng Thiên phải có ngai báu, nay chỉ có một Điện Hội Anh, lại chỉ có sập vàng, thế là lễ nghi gì?”.

Sau đó, đám hoạn quan rất thù Nguyễn Trãi và nghĩ ra mưu kế làm hại Nguyễn Trãi tại Lệ Chi Viên.

Trung Kiên (tổng hợp)

TẠP CHÍ IN